Nguyệt San Số 5


Tha La Xóm Đạo
Tác giả: V.T
Thể loại: sưu khảo

Lời của BBT: Người sĩ quan QLVNCH với cái tên thân thương: Nhạc sĩ Zdũng Chinh, đã hy sinh vì tổ quốc và để lại hai nhạc phẩm nổi tiếng trong kho tàn âm nhạc Việt Nam là: Những Đồi Hoa Sim và Tha La Xóm Đạo. Những Đồi Hoa Sim phổ nhạc từ bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, Tha La Xóm Đạo được phổ nhạc từ bài thơ Tha La Xóm Đạo của Vũ Anh Khanh. Tha La Xóm Đạo là một hình ảnh tiêu biểu của sự đấu tranh giành quyền tự do tôn giáo cho người Công Giáo của Miền Nam Việt Nam.
          Vì nhờ sự cho phép của người Pháp họ đạo Tha La phát triển ngày càng mạnh mẽ và vững vàng. Vào đầu thế kỷ 20 nhà thờ được xây cất qui mô hơn. Tuy vậy người Công Giáo Tha La không quay lưng lại với dân tộc. Chúng ta không đủ tài liệu để biết Tha La có tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân chống Pháp hay không, nhưng chắc chắn vào mùa Thu năm 1945, thanh niên Tha La, nhất là thành phần trí thức đã tích cực tham gia phong trào kháng chiến ở đất Nam Kỳ. Và chính thời điểm nầy, nhà thơ Vũ Anh Khanh cũng gia nhập đi theo phong trào kháng chiến, ông đã làm bài thơ để đời, trong đó có những câu cho thấy rằng người Tha La đã đặt tình yêu quê hương tổ quốc lên trên hết.
         Bài thơ "Tha La xóm đạo" của Vũ Anh Khanh đã đi vào lòng người bao nhiêu năm qua phải nói là có sự đóng góp của nhạc sĩ Dũng Chinh và ca khúc: "Tha La xóm đạo" khiến cho bài thơ càng bay bỗng vang xa hơn. Và để minh họa cho tầm vang xa đó, tôi xin sưu tầm bài thơ và bài hát Tha La Xóm Đạo sau đây:

 .... V.T.....

** Nhạc phẩm Tha La Xóm Đạo của nhạc sĩ Zdũng Chinh

Ðây Tha La Ðây xóm đạo tiêu điều
Cây buồn quanh hận thù dâng ai oán
Ðây mênh mông, Tha La buồn quạnh quẽ
Kìa rừng cây trái ngọt khách một dạo về thăm xóm
Hồn ngây ngất và buồn xưa lây lất
Nhìn hoa máu rưng sầu.

Ðây Tha La Ðây xóm đạo hoang tàn
Mây trời vây quanh màu tang khói lửa
Bao năm qua, Tha La còn chờ đó
Ðoàn người đi giết thù đã hẹn về từ dạo ấy
Lòng viễn khách, bồi hồi như thương tiếc
Mùa thu nắng hanh vàng.

ÐK:

Tha La ơi, xóm đạo ơi
Còn đâu nữa chiếc áo ngày xưa
Ðành khép kín, khoác vào bộ chiến y
Lòng hờn căm, một chiều xưa lửa dậy
Nghe não nùng chưa, Tha La sầu khuất biếc
Xóm đạo chắc hận thù.

Ðây Tha La Ðây xóm đạo yên lành
Nay còn Ðây một rừng xanh suối mát
Tha La ơi, khi nao giặc tan hết
Ngày vui xưa trở lại, khách sẽ hẹn về thăm xóm
Hồn lây lất, và buồn xưa chất ngất
Hận kia đến bao giờ.   ( Nhạc Zdũng Chinh)

**Tại sao là "Tha La Xóm Đạo ?":
       Tên Tha La phát nguyên do chữ của người Thủy Chân Lạp hay Khmer là “Schla", được người Việt đọc trại thành "Tha La", nó là vùng đất xưa nơi người Chân Lạp định cư, trước khi sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam. Vì là tên của người Khmer nên nó có âm thanh lạ tai của ngoại ngữ khi chúng ta dùng mà không mang nghĩa Việt ngữ nào hết. Nhưng nếu phải dịch từ ngữ "Schla" thí nó có nghĩa là trạm, trại, nhà lồng, nhà mát. Vùng Tha La ngày xưa là rừng rậm hoang vu, đã được quan quân và con dân chúa Nguyễn đến khai phá và định cư từ hơn 200 năm trước. Đất Tây Ninh cũng có nhiều chỗ cùng mang tên Tha La. Tại nhiều tỉnh khác như Châu Đốc, Trà Vinh, có đồng bào Khmer ở, cũng có nhiều địa danh Tha La nhưng nó không nổi tiếng như Tha La Xóm Đạo của Trảng Bàng để rồi địa danh này được đưa luôn vào văn học và âm nhạc Việt Nam. Tha La theo dấu chân của Trảng Bàng khi thì vì Trảng Bàng thuộc tỉnh Tây Ninh, nên có dạo thời Pháp thuộc nó bị sáp nhập vào Gia Định, rồi lại được tách riêng theo Tây Ninh thời đệ nhất VNCH, rồi Trảng Bàng lại bị chia cắt vào đất tỉnh mới là Hậu Nghĩa thời đệ nhị CH, rồi chính quyền VN sau 1975 lại sát nhập Tha La và Trảng Bàng vào tỉnh Tây Ninh. Điều hiển nhiên mà nhiều người Tây Ninh hay Gò Dầu, Trảng Bàng cứ xem Tha La thuộc địa phận Tây Ninh vì sự gắn bó lịch sử từ nguyên thủy.

**Đường về Tha La:
       Đường đi đến Tha La không khó mà thật dễ đi. Ta cứ lấy Quốc Lộ 1 từ Sài Gòn theo hướng tây bắc mà chạy thẳng về Gò Dầu hay về Tây Ninh. Con đuờng này đưa bạn về Trảng Bàng nơi có địa danh Tha La Xóm Đạo. Nên biết đoạn đường Trảng Bàng và Sài Gòn cách nhau khoảng  50 cây số mà thôi. Từ Trảng Bàng mon men về hướng tây thêm  hay 6 cây sô thì chúng ta vào đất Tha La, nơi có xóm đạo hiền hòa, nơi có nhiều trái ngọt cây lành. Người Tha La hay người Trảng Bàng không thể nào không biết những món ăn địa phương tại đây là món bánh canh giò heo hay bánh tráng cuốn thịt heo. 
       Tây Ninh  có nhiều vùng đất mang tên của thảo mộc, cây cối như Trãng Bàng, Trãng Dài, Trảng Sụp, Trãng Lớn, Gò Dầu Thượng, Gò Dầu Hạ, Gò Chai, Giồng Riềng, Giồng Ổi v.v. nói lên ý nghĩa của cây cối, của vị thế đất, chỗ cao, chỗ thấp, chổ trũng. Tha La tuy nhỏ về diện tích, nhưng cũng mang ít nhiều đặc tính đó. Toàn không gian hay khunh cảnh là một bức tranh thật linh động, đẹp đẽ và mát rượi tâm hồn, mát vô cùng tận của những vùng đất thiên nhiên phì nhiêu, nào là đất gò nhô lên, đất đỏ, dất sét, đất trắng, đất ruộng hay đất vườn. Tùy theo vị thế đất, cư dân ở đây trồng đủ các thứ rau quả, cây trái như một nét tham lam của thiên nhiên. Bước vào đầu ngỏ ta thấy nhiều nhất là tre, trúc và tầm vong. Với thân thon, cành dịu, lá mỏng dài nằm dọc hai bên đường, ngọn giao chụm vào nhau thành một cái vòm như cái hang mát rượi, chạy dài cả cây số. Đi trong bóng râm xanh um ấy, gió thổi hiu hiu làm lao xao kẻo kẹt cành cây hay đánh rơi những chiếc lá vàng khô, tung tăng theo những giọt nắng mang màu huyền ảo. Hỏi rằng bạn có thích không chứ?  Tha La là một địa danh đẹp về thắng cảnh thiên nhiên và đẹp vì tình người trong tiềm thức của tôi.. Thật vậy, tên Tha La chỉ cho ta ý nghĩa tượng hình ra một họ đạo tại đất Tha La này. Chính vì mật độ dân cư không nhiều chỉ vào khoảng 3,000 người trước năm 1975, người ta không tìm thấy Tha La trong bản đồ địa lý hay hành chánh. Đây là xóm đạo thuộc Xã An Hoà được tổ chức khá ngăn nắp và qui củ, nhà cửa khang trang, quây quần chung quanh ngôi thánh đường. Trải qua bao thăng trầm của chiến tranh tàn phá, nhà thờ đã được trùng tu lại. Cho tới năm1967 thì việc sửa sang được hoàn tất. Chánh toà nằm giữa với tường gạch bao quanh, với sân rộng lót đá, với trường học và nhiều cơ sở phụ thuộc. Ngôi Chánh toà đồ sộ có phần nguy nga, hai mái ngói xoải dài xuống thấp có sức chứa chừng 400 con người ngoan đạo trong các buổi hành lễ. Tượng Đức Mẹ trước mặt, và có một hang đá khổng lồ nằm bên hông, tháp chuông không cao nhưng có kiến trúc lạ mắt như cái lồng chim. Toàn bộ khu nhà thờ, nhìn chung, với lối kiến trúc đơn giản, không mang nặng nét cổ điển của Tây phương, nhưng lại được bao bọc xung quanh bằng những tàn cây cổ thụ cao to cho bóng mát, mang vẻ u hoài, thanh tịnh như một ngôi chuà cổ của một miền quê.
        Xã An Hòa, thuộc quận Trãng Bàng, có 8 ấp, dân số 12,000, nhìn trên bản đồ thấy hình dạng bầu dục, nằm dọc theo rạch Trãng Bàng mà đầu nhọn là ấp An Thới vươn ra tận Vàm Trãng bên bờ sông Vàm Cỏ Đông. Đây là vùng đất phì nhiêu, trù phú do phù sa sông bồi nên có lẽ từ lâu lắm rồi.. Ngoài đồng ruộng, nương rẩy ra, khung cảnh còn thấy có những lò gạch nung đất sét, rồi trại mộc trại cưa, hay những nhà máy xay lúa. Ngành thủ công thịnh hành nhất là nghề đan lát các sản phẩm gia dụng bằng tre, trúc hay nứa.

**Diễn trình xây dựng Tha La Xóm Đạo:
       Theo sách Tây Ninh Xưa và Nay của tác giả Huỳnh Minh, xuất bản năm 1972 và tái ấn bản tại Úc năm 1992 thì vào cuối thời Minh Mạng, khoảng 1840, có một nhóm giáo dân độ vài chục gia đình được cha Cosimo Trí dìu dắt, chạy nạn tới khu rừng Tha La, khai quang lập ấp xây dựng cuộc sống, đồng thời cố gắng bảo tồn gốc đạo và niềm tin. Để tránh sự theo dõi và phát giác của viên chức triều Nguyễn đang ở thời kỳ e ngại đạo ngoại lai khiến bị theo dõi, những buổi lễ thường phải lưu động. Một tàn cây cổ thụ, một mái lá đơn sơ, hoặc túp liều tranh ủ dột cũng mang đủ ý nghĩa và mang tính chất của cái nhà thờ. Nhiều lúc phải làm lễ ban đêm. Khắp vùng xã An Hoà xưa hầu như đều có dấu chân của con Chúa. Cha chủ chiên Cosimo Trí đã thấp một ngọn nến giữa rừng âm u, vừa khai hoang lập ấp vừa ẩn náu, vừa mưu sinh, vừa khai sáng nguồn suối tâm linh tươi mát cho các con chiên, để nó trôi chảy cho đến ngày hôm nay. Nếu triều đình có lệ phong thần cho những vị có công khai làng mở mang bờ cõi thì chính cha Trí cũng là vị rất xứng đáng được phong Thánh Hoàng bổn cảnh của dân chúng An Hoà.
       Sau năm 1863, khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Nam Nam kỳ thì hoàn cảnh thuận tiện hơn. Việc truyền đạo Chúa được nhà cầm quyền Pháp khuyến khích và giúp đỡ. Giáo dân gom tụ lại Tha La đông hơn và họ đạo Tha La được chính thức thành lập, trực thuộc Toà Thánh La Mã. Nhà thờ có nơi cố định, đầu tiên được xây cất, với vật liệu đơn sơ. Từ điểm nầy, các vị cha tiếp nối đi đến các địa phương khác để truyền đạo và lập thêm xứ đạo mới. Ngày nay ở Tây Ninh, đạo Công Giáo vẫn phát triển song hành với các tôn giáo khác. Đi đâu cũng thấy nhà thờ, ngay cả vùng thánh địa Cao Đài cũng có.
       Vì nhờ sự cho phép của người Pháp họ đạo Tha La phát triển ngày càng mạnh mẽ và vững vàng. Vào đầu thế kỷ 20 nhà thờ được xây cất qui mô hơn. Tuy vậy người Công Giáo Tha La không quay lưng lại với dân tộc. Chúng ta không đủ tài liệu để biết Tha La có tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân chống Pháp hay không, nhưng chắc chắn vào mùa Thu năm 1945, thanh niên Tha La, nhất là thành phần trí thức đã tích cực tham gia phong trào kháng chiến ở đất Nam Kỳ. Và chính thời điểm nầy, nhà thơ Vũ Anh Khanh cũng gia nhập đi theo phong trào kháng chiến, ông đã làm bài thơ để đời, trong đó có những câu cho thấy rằng người Tha La đã đặt tình yêu quê hương tổ quốc lên trên hết:

"Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. ờ...Ơ...Hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh..."
       Pháp là ân nhân của nền đạo, nhưng lại là kẻ thù của dân tộc. Dù phải chọn lựa khó khăn, thanh niên Tha La đã dứt khoát ra đi kháng chiến, bỏ lại ngôi nhà thờ hoang vắng. Tha La đã trở thành một trong những địa bàn của Đoàn Thanh Niên Tiền Phong. Đặc biệt, không phải chỉ có dân thường mà cả những vị tu sĩ cũng tạm xếp áo dòng để vô bưng, ví dụ trường hợp của linh mục Nguyễn Bá Kính ra đi năm 1946.
       Sau năm 1954, Tha La hồi sinh, được tái thiết, mỡ mang nhanh chóng. Nhưng chỉ được ít năm sau thì trận giặc khác nổi lên. Đó là cuộc nội chiến nam bắc phân tranh mà nguyên nhân là ngọn lửa căm thù đấu tranh giai cấp theo chủ thuyết Công Sản, chủ trương giải phóng nguời dân trong xã hội bị cùm kẹp, hy sinh cho một thế giới đại đồng vô sản của Marx-Lê (sic), người CS vốn chủ trương đấu tranh sắt máu, cổ xúy vô thần, vô tín ngưỡng, vô nhân tâm giết oan hơn tha lầm, và chiến tranh đã ảnh hưởng đến sinh hoạt êm đềm của Tha La. Đoạn trích thơ "Tha La" của Vũ Anh Khanh nghe sao não nề trong tâm hồn tôi:

"- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
..."
       Hay như ý thơ của Lâm Thanh, nghe trong bài "Tha La ngày trở lại" cho thấy hậu quả của chiến tranh tràn vào sinh hoạt Tha La, nghe trong buồn tênh:

"Ngày quê hương súng nổ
Ta vật vã yêu thương,
Rẽ đôi đường sông núi
Nước vận trở về nguồn.
Ngày quê hương nhuộm đỏ
Anh tức tưởi ra đi,
Em ở cùng giặc dữ,
Nghe tim vỡ biệt ly.
Anh chim trời gẩy cánh
Hằn bao vết thương lòng
Vẫn miệt mài viễn xứ
Mộ phần biết có không!..."

       Cũng như bao địa phương khác trên đất nước Việt Nam thân yêu khi giặc tràn vào thôn xóm, Tha La đã đứng lên tự vệ cho chính mình một cách oai hùng, Tha La của sự kiên cường, của niềm tự hào bất khuất. Lần nầy thì người dân đất Tha La rời bỏ hàng ngũ những người bạn kháng chiến cũ để trở về với người quốc gia, với lập trường dân tộc. Họ yêu Chúa, yêu nước, yêu bờ ruộng nương, yêu con sông rạch, yêu xóm làng, một cách cụ thể hơn là họ không yêu chủ thuyết vô gia đình, vô tín ngưỡng của Xã Hội Chủ Nghĩa. Tha La giữ vững niềm tin, giữ vững lập trường với quê hương dân tộc theo dòng lịch sử đã qua.